Cuộc đời và sự nghiệp Trương_Thị_Sáu

Bà có nhũ danh là Trương Thị Sa, sanh ngày 26 tháng 6 năm 1899 tại Phước Lại, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (hiện nay là tỉnh Long An). Cha bà là người Hoa từ Phúc Kiến (Trung Quốc) sang Việt Nam để mưu sinh và lấy vợ Việt Nam. Khi bà được hai tháng tuổi thì cha mất. Bà Sa và các anh chị phải sống tự lập. Ngoài việc ruộng rẫy bà còn học thêm nghề dệt chiếu, nghề may. [1]

Từ năm 18 tuổi, Bà quyết tâm lên Sài Gòn lập nghiệp và năm 22 tuổi đã trở thành một chủ tiệm may có tiền dư dã, có sắc đẹp nổi danh là "Cô Sáu Cầu Ông Lãnh"được các giới thượng lưu, trí thức, quan chức, thương gia mến mộ.

Năm 24 tuổi, Bà gặp Nguyễn An Ninh, một nhà yêu nước chân chính, có chí khí hơn người nên đồng ý kết hôn với ông và bán tiệm may, bỏ cuộc sống xa hoa ở thành thị để về sống bên chồng tại quê Mỹ Hòa (Hóc Môn), chấp nhận cuộc sống lao động vất vả của một phụ nữ nông thôn.

Về làm vợ ông Ninh, ngoài việc chăm lo gia đình và phụng dưỡng cha chồng, (ông Nguyễn An Khương thường xuyên đau yếu) bà còn tận tình giúp ông nhiều việc trong sự nghiệp cứu nước mà ông đã dấn thân.

Bà lo tiền bạc cho ông đi Pháp rước cụ Phan Châu Trinh về nước để xây dựng phong trào chống Pháp đồng thời lo chu đáo thuốc men, nơi ăn ở và chăm sóc cụ Phan Châu Trinh. Bà còn giúp đỡ phương tiện vật chất, tiền bạc cho anh em đồng chí của Nguyễn An Ninh, nhất là lo cho ông tiếp tục ra các tờ báo Tiếng Chuông Rè và Nước Nam.

Nhân ngày giỗ giáp năm cụ Phan Châu Trinh (1927), bà cùng cốt cán Thanh Niên Cao Vọng [2] vận động hàng trăm ngàn người đi viếng mộ cụ Phan Châu Trinh và lo lộ phí cho chồng đi Pháp vận động cách mạng.

Tháng 9 năm 1928, khi ông Nguyễn An Ninh bị bắt lần hai, Thống đốc Nam Kỳ mời bà lên định mua chuộc, dụ dỗ, hứa cấp tiền, cấp đất nếu khuyên được chồng thôi làm quốc sự. Nhưng bà khéo léo khước từ.

Năm 1929, lúc ông Nguyễn An Ninh còn bị giam giữ, bà đã tận tình giúp đỡ ông Châu Văn Liêm từ Cần Thơ lên vùng Hóc Môn hoạt động. Bà còn giới thiệu cốt cán Thanh Niên Cao Vọng để ông Liêm tổ chức thành lập Đảng Cộng sản

Cuối năm 1931, ông Nguyễn An Ninh ra tù. Bà ra sức lo bảo đảm an ninh cho ông, xây dựng khu nhà mình thành một hệ thống phòng ngự chặt chẽ không tên mật thám nào lọt vào được. Đồng thời, nhà bà trở thành trạm liên lạc để những người hoạt động cách mạng gặp gỡ nhau hoặc nghỉ ngơi, bồi dưỡng sức khỏe, hoặc tạm lánh vì bị mật thám truy bắt. Bà đã lo cho họ tất cả từ tiền tàu xe, quần áo đến mọi việc. Tính ra trong thời gian này có hàng ngàn người qua lại nhà bà và bà đã bán dần tư trang để lo giúp đỡ họ. Lý Tự Trọng cũng là một trong những người hay đến đây đọc sách báo, mà bà thường gọi chú Nhỏ hay "con mọt sách".

Để có tiền, bà phải nấu dầu cù là cho ông Nguyễn An Ninh và nhiều anh em khác đi bán dạo, đồng thời để ngụy trang đi khắp nơi vận động quần chúng. Bà đã kiếm được một số tiền khá lớn để ra báo Tranh Đấu đóng góp vào việc vận động thắng cử của hai đảng viên Cộng sản Nguyễn Văn TạoDương Bạch Mai vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn. Sau đó vào năm 1935, bà lại phải lặn lội xuống vùng Lục Tỉnh để bán vải mặc dù khi ấy bà đang mang thai đứa con thứ tư. Nhờ đồng bào thương và giúp đỡ, bà kiếm được số tiền giúp ông Ninh khởi xướng phong trào Đông Dương Đại hội

Trong cao trào của phong trào này, bà cũng tham gia đi vận động khắp nơi thành lập các Ủy ban Hành động. Và tại xã Mỹ Hòa bà được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành động xã. Bà làm việc ngày đêm, viết khẩu hiệu rồi đem treo khắp nơi, kể cả nhà việc của ban hội tề.

Qua nhiều năm sát cánh, bà trở thành người đồng chí thân thiết của Nguyễn An Ninh, thường cùng ông bàn bạc những việc hệ trọng.

Sau khi ông Nguyễn An Ninh bị bắt lần ba và bị tòa án Trà Vinh kêu án, bà viết một bức thư gởi Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam Kỳ xác định chồng mình vô tội, yêu cầu xét lại bản án.

Trong khi ông Nguyễn An Ninh ngồi tù, tuy cuộc sống có vất vả bà vẫn cố gắng cho in và xuất bản quyển "Phê bình Phật giáo"mà ông vừa viết xong trước ngày bị bắt

Năm 1939, ông Nguyễn An Ninh ra tù nhưng còn 5 năm biệt xứ nên phải cư trú ở Mỹ Tho. Bà đưa các con xuống cùng ở đó với ông. Rồi ông lại bị bắt và đày ra Côn Đảo. Bà đưa gia đình trở về sống tại Mỹ Hòa để chăm sóc người cô chồng là bà Nguyễn Thị Xuyên [3] đang lâm bệnh nặng. Sau khi bà Xuyên mất, bà dọn về sống ở Bà Chiểu, thuê phố ở với người cháu dâu là Nguyễn Thị Một (vợ ông Trương Văn Bang, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ thời kỳ 1933 - 1936). Vì lúc này bà Nguyễn Thị Một cần một chỗ nương tựa để tiếp tục hoạt động sau khi Nam Kỳ khởi nghĩa bị thất bại. Khi đó quân đội Nhật mới vào Đông Dương, ba lần cho người đến tìm bà để mua lại tủ sách của ông Nguyễn An Ninh và định mua chuộc bà, dụ dỗ ông Ninh cộng tác với họ thành lập chính phủ thân Nhật. Dù biết chồng đang lâm bệnh nặng tại Côn Đảo, bà vẫn nhất quyết từ chối.

Cuối năm 1943, bà được tin Nguyễn An Ninh qua đời tại Côn Đảo để lại cho bà gánh nặng gia đình và sự nghiệp cứu nước còn dang dở. Bà vẫn tiếp nối chí hướng của ông.

Bà và ông Nguyễn An Ninh sinh được 5 người con:

1/Nguyễn An Định (1926-2019)

2/Nguyễn Thị Bình (03/11/1928- mất ngày 04/04/2013 nhằm ngày 24/02/2013 Âm lịch)

3/Nguyễn An Tịnh

4/Nguyễn Nguyệt Minh

5/Nguyễn An Vĩnh